Trà
Bồng là huyện miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Ngãi,. Huyện lỵ là
thị trấn Trà Xuân, cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi là 50 km, trong đó có
20 km Quốc lộ 1A và 30 km đường tỉnh lộ 622. Phía Đông giáp huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh,
phía Tây giáp huyện Tây Trà,
phía Nam giáp huyện Sơn Tịnh và Sơn Hà,
Phía Bắc giáp huyện Bắc Trà My và
huyện Núi Thành.
Tổng
diện tích của toàn huyện là 419,26km2. Đơn vị hành chính gồm 9 xã và 1 thị
trấn, với 44 thôn.
Trung tâm hành chính huyện Trà Bồng
Trà
Bồng nằm ở vùng khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ trung bình 26-27oC, có 2 mùa mưa
nắng tương đối rõ rệt. Mùa nắng từ tháng 02 đến tháng 8 (âm lịch), khí hậu mát
mẽ, mưa nhiều, lượng mưa trung bình 50-60mm/tháng. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9
đến tháng giêng năm sau, thường hay gây lũ, lụt, sạt lở núi gây khó khăn trở
ngại cho đời sống nhân dân các dân tộc trong huyện.
Là
một huyện miền núi nên diện tích đồi núi chiếm phần lớn đất đai trong huyện,
vùng đồng bằng nằm ở phía Đông huyện, giáp với huyện Bình Sơn và phía hữu ngạn
sông Trà Bồng, nằm ở các xã Trà Phú, Trà Bình, và thị trấn Trà Xuân.
Địa
hình huyện Trà Bồng khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các khối núi và sông
suối chằng chịt trong các thung lũng nhỏ hẹp, núi ở đây có độ dốc lớn.
Một góc sông Trà Bồng
1.Lịch Sử Hình Thành
Theo
sách " Đại
Nam Nhất Thống Chí", Trà Bồng xưa là một trong bốn nguồn
(nguyên) của tỉnh Quảng Ngãi, được gọi là "Nguồn Đà Bồng". Năm Minh
Mạng thứ 13 (1832), triều Nguyễn đổi
tên thành "Nguồn Thanh Bồng". Năm 1915 Thực dân Pháp đổi thành
"Đồn Trà Bồng" gồm 3 tổng: Sơn Bồng, Sơn Thuận và Sơn Thọ, chia làm
34 sách (làng). Năm 1930, Thực dân Pháp đặt tại đây Đồn kiểm lý, dưới đồn kiểm
lý có " Chánh, phó tổng dịch Man" ở các tổng và "Sách
trưởng" ở các sách. Sau đó "Đồn Trà Bồng" được đổi tên thành
" Châu Trà Bồng". Ở các xã vùng thấp, đồng bào Kinh sinh sống (lúc
này thuộc huyện Bình Sơn) gồm: Làng Xuân Khương, ấp Đại An; làng Đông Phú, ấp
Phú Tài; làng Bình Hòa, làng An Phong, ấp Thạch Bích; ở mỗi làng Thực dân Pháp
đặt một Lý trưởng đứng đầu.
Sau
Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính quyền cách mạng đổi tên châu Trà Bồng
thành huyện Trà Bồng, các sách cũ nhập thành các xã mới, các làng Tây Bình Sơn
nhập vào huyện Trà Bồng, hình thành 10 xã đồng bào dân tộc thiểu số là: Trà
Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh, Trà Lãnh, Trà Nham,
Trà Thủy, Trà Sơn. Đối với các làng, ấp người Kinh, chính quyền tổ chức lại
thành 3 xã: Xuân Khương và Đại An hợp thành xã Nguyễn Lang; Đông Phú và Phú Tài
hợp thành xã Đào Yển; Bình Hòa, Vinh Hòa, An Phong, Thạch Bích hợp thành xã
Nguyễn Hiệt. Đầu năm 1946, ba xã Nguyễn Lang, Nguyễn Hiệt, Đào Yển hợp nhất
thành xã có tên là Võ Cẩn.
Cuối
năm 1955, sau khi tiếp quản Trà Bồng, ngụy quyền Sài Gòn đổi huyện Trà Bồng thành
quận Trà Bồng, lập nên 7 xã và 13 ấp. ba xã người Kinh đổi tên gọi là Trà
Khương, Trà An, Trà Hòa. Về phía cách mạng, để xây dựng căn cứ địa phục vụ cho
lãnh đạo, chỉ đạo, vào năm 1957, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tách các xã
người Kor của huyện Sơn Hà đó là: Sơn Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân, sáp nhập
vào huyện Trà Bồng đổi tên thành: Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Tân, Trà Bùi. Tháng
5-1958, để thuận lợi cho việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, Tỉnh ủy
Quảng Ngãi quyết định tách các xã Đông Bắc của huyện, thành lập khu I (Trà
Xuân, Trà Phú, Trà Bình, Trà Sơn, Trà Thủy, Trà Giang) các xã vùng núi Cà Đam
thành lập khu II (Trà Tân, Trà Bùi, Trà Phong, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thọ, Trà
Xinh, các xã phía Tây thành lập khu IV (Trà Khê, Trà Thanh, Trà Hiệp, Trà Lâm).
Đầu
năm 1970, Trà Bồng được chia làm 2 huyện là Đông Trà và Tây Trà. Cuối năm 1970,
Khu ủy V nhập huyện Trà Bồng và Sơn Tây thành Khu Sơn Trà trực thuộc Khu A của
Khu ủy V. Cuối năm 1972, Khu Sơn Trà giải thể, các xã Sơn Tây về lại Sơn Tây,
các xã thuộc huyện Trà Bồng được tái lập như cũ.
Sau
năm 1975, sau nhiều lần tách, nhập các đơn vị hành chính cơ sở, đến cuối năm
1990 Trà Bồng có 19 xã gồm: Trà Thanh, Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Thọ,
Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Thủy, Trà Sơn, Trà Nham, Trà Bùi, Trà Giang,
Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà Trung, Trà Xinh và Trà Xuân, đến năm 1995 Trà
Xuân được nâng lên thành thị trấn Trà Xuân.
Ngày
01/12/2003, theo Nghị định số 145/2003/NĐ-CP, 9 xã phía Tây huyện được tách lập
thành huyện mới Tây Trà, Trà Bồng còn 9 xã: Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà
Bùi, Trà Giang, Trà Thủy, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Sơn và thị trấn Trà Xuân.
2. Diện
tích và thành phần dân cư
Tổng
diện tích là: 41.926 ha, trong đó: đất Nông nghiệp là: 5.308ha, đất Lâm nghiệp
là: 30.338ha, đất chuyên dùng 337ha, đất khu dân cư 195ha và đất chưa sử dụng
là 5.968ha. Dân số toàn huyện là: 29.761 người (2010), trong đó: Người Kinh
16.521 người, Dân tộc thiểu số 13.240 người; tỉ lệ tăng dân số tự nhiên là
1,20%, mật độ dân số khoảng 72,09 người/km2.
Dân
tộc Kinh sống tập trung chủ yếu ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà
Xuân. Người Kor sống rải rác ở các xã còn lại của huyện. Người Kor Trà Bồng thuộc
nhóm ngữ hệ Môn – Khơme. Người Kor sống thành từng Nóc (làng), có đến vài chục
hộ gia đình cùng quần cư trong 1 Nóc, Nóc của người Kor thường ở trên lưng
chừng núi hay ven các dòng sông suối hoặc ở giữa thung lũng. Phương thức sản
xuất canh tác cũng gần giống với các dân tộc khác ở dọc Trường Sơn - Tây
Nguyên, chủ yếu là sản xuất lúa nước kết hợp với kinh tế nương rẫy. Bên cạnh đó
người Kor còn săn bắt, hái lượm, đánh cá dọc theo các sông, suối.
Trong
quá trình phát triển bên cạnh nét văn hóa chung với các dân tộc anh em ở miền
Tây Quảng Ngãi, người Kor ở Trà Bồng vẫn bảo lưu và phát triển được vốn văn hóa
cổ truyền giàu bản sắc của dân tộc mình như: các lễ hội truyền thống, Nghệ
thuật Dân ca, Dân nhạc, Dân vũ, Nghệ thuật Điêu khắc, đan lát, trang sức, trang
phục độc đáo riêng có của Trường Sơn – Tây Nguyên.
Trên
địa bàn huyện có trên 4 dân tộc anh em cùng sinh sống gồm Kinh, Kor, Hrê, Ca
Dong, ngày nay còn có dân tộc Mường và các dân tộc khác…… Về tín ngưỡng, tâm
linh các dân tộc Trà Bồng đều theo Đảng và Bác Hồ, người Kor Trà Bồng tôn thờ
vạn vật hữu linh, một số theo 4 tôn giáo nhỏ là Thiên Chúa, Tin Lành, Phật
Giáo,Cao Đài.
3. Lợi Thế
·
Cách khu kinh tế Dung Quất
22 km về phía tây.
·
Quý III năm 2006, Bộ Giao thông vận tải sẽ
khởi công tuyến Dung Quất - Trà Bồng - Bắc Trà My (Quảng Nam)
nối khu kinh tế Dung Quất với Tây Nguyên,
các tỉnh Đông BắcCampuchia và Lào.
·
Ngày 8/6/2007 ủy ban nhân dân tỉnh
cũng đã đồng ý cho Công ty Cổ
phần Đường Quảng Ngãi đầu tư Dự án Khu du lịch sinh thái tổng
hợp tại xã Trà Bình (tức suối khoáng nóng Bình Hòa I,II được khai thác sản xuất
đóng chai mang thương hiệu Thạch Bích), huyện Trà Bồng trên diện tích khoảng
500 ha với các hạng mục chính như: khu vực tắm nước nóng, chữa bệnh, nghỉ
dưỡng; khu vui chơi, giải trí, leo núi; khu resort; khu du lịch sinh thái; khu
biệt thự nghỉ dưỡng, biệt thự cao cấp; sân golf, khách sạn,... Tổng vốn đầu tư
dự kiến: 500 triệu USD.
4.Kinh Tế
Kinh
tế Trà Bồng nhìn chung còn chậm phát triển so với mặt bằng chung của các địa
phương khác trong tỉnh. Hoạt động kinh tế chủ yếu của nhân dân Trà Bồng là Nông
– Lâm nghiệp, Công – Thương nghiệp và Dịch vụ, hiện đang trong quá trình trên
đà phát triển. Trong những năm qua mặc dù đời sống kinh tế của nhân dân tuy gặp
nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Đảng và
Nhà nước, nhiều chương trình được triển khai trên địa bàn: Chương trình 134,
135, 30a, Nông thôn mới từng bước cơ sở hạ tầng được xây dựng khang trang,
nhiều hợp phần hỗ trợ sản xuất, cũng như hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo và
các chương trình khác được đầu tư trên địa bàn huyện, cho nên nền kinh tế có
bước phát triển theo hướng tích cực, từng bước thực hiện công tác giảm nghèo
nhanh và bền vững.
Nông
nghiệp của huyện chủ yếu là dựa vào trồng lúa, mía, khoai, mì, bắp và trồng
quế….chăn nuôi gia súc, gia cầm ở huyện Trà Bồng phổ biến là bò, trâu, gà, vịt.
Tiểu
thủ công nghiệp ở Trà Bồng chủ yếu vẫn là các nghề mang tính thủ công tự túc,
tự cấp của người Kor, trong đó chủ yếu là đan lát các vật dụng dùng cho sinh
hoạt và sản xuất như gùi các loại, chiếu nằm, chiếu phơi lúa… với những nét đan
lát tinh xảo, vật liệu chủ yếu dùng mây, cây lùng, nứa sẵn có tại địa phương.
Nghề thủ công của người Kinh thì chủ yếu là các nghề thông dụng như hồ, mộc,
làm gạch ngói, rèn, khai thác đá và nghề sản xuất đồ thủ công mĩ nghệ từ vỏ quế
như bình ly, ống đựng tăm, tinh dầu quế, quả bánh bằng vỏ quế già, sản xuất
nhang quế.
Nhiều
nhà máy, công ty, xí nghiệp ra đời và phát triển, điển hình là nhà máy sản xuất
chế biến quế của công ty TNHH Hương Quế Trà Bồng, có nguồn nước khoáng Thạch
Bích tại xã Trà Bình hiện được công ty Đường Quảng Ngãi đang đầu tư khai thác……
Thương
mại và dịch vụ Trà Bồng đã và đang được quan tâm đầu tư phát triển. Huyện đã
chủ động đầu tư, nâng cấp, mở rộng chợ Trà Bồng, và các chợ khác ở các xã và
trung tâm cụm xã. Các loại hình dịch vụ như: internet, karaoke, nhà nghỉ… cũng
đang trên đã xây dựng, hình thành và phát triển.
"Quế Trà Bồng xác lập kỷ lục châu Á"
"Quế Trà Bồng xác lập kỷ lục châu Á"
5. Văn Hóa Xã Hội
Đảng
bộ huyện và ủy ban nhân dân huyện đã tập trung chỉ đạo thực hiện công tác xây
dựng đời sống văn hóa, góp phần ngăn chặn đẩy lùi kịp thời các tệ nạn xã hội
lây lan trong cộng đồng. Trong những năm qua, nhiều mô hình văn hóa được tập
trung xây dựng và phát huy được hiệu quả như: gia đình văn hóa, khu dân cư tiên
tiến, thôn, tổ dân phố văn hóa, cơ quan văn hóa. Điểm nổi bật trong văn hóa ở
Trà Bồng là các di sản văn hóa cổ truyền và hoạt động văn hóa. Ở dân tộc Kor,
di sản văn hóa khá phong phú, đậm nét còn lưu giữ nguyên vẹn. Trà Bồng là nơi
cư trú chính của dân tộc Kor, nhà của người Kor thường ở trên lưng chừng núi,
hay ven các dòng sông suối, nhà được chia dọc làm hai phần, một nửa chạy dọc
suốt từ cầu thang đầu hồi bên này tới đầu hồi cầu thang bên kia gọi là gưl tức
nơi sinh hoạt cộng đồng hay nhà khách. Phần còn lại gọi là tum, là nơi sinh
hoạt thiêng liêng của từng gia đình,không ai được vào, nếu không có sự đồng ý
của gia chủ,nhiều tum gộp lại trở thành 1 nóc (nhà dài hay còn gọi là nhà tàu lửa),
đứng đầu mỗi nóc là một già làng. Nơi đây, người dân vẫn bảo tồn được các di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý báu.
Người
Kor vốn có tín ngưỡng nguyên thủy vạn vật hữu linh, thờ những đỉnh núi cao gọi
là núi Ông, núi Bà. Trong di sản văn hóa dân tộc Kor có truyện cổ tích (đã được
sưa tầm, dịch thuật và xuất bản), có các làn điệu như xà ru, a giới, cà ru, a
lát, a-rợp… Người Kor thích đánh chiêng và có nhiều giai điệu chiêng đặc sắc,
lễ hội của người Kor thì có lễ ăn lúa mới, làm nhà mới, lễ giã rạ, đặc sắc có
lễ cưới, lễ rước hồn lúa, lễ hội hiến trâu rất đậm màu sắc dân tộc. Trong lễ
hiến trâu có cây nêu và cây gu, 2 công trình điêu khắc hết sức độc đáo riêng có
của Người Kor. Cây nêu của dân tộc Kor được dựng khá cao, với nhiều nét hoa
văn, đan, khắc tinh xảo, có hình tượng chim chèo bẻo trên đầu nêu, thể hiện
quan niệm thẩm mĩ và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Kor. Riêng bộ gu trong
nhà là di sản riêng có của dân tộc Kor, không thể tìm thấy ở các dân tộc khác.
Gu có gu pi và gu pô thể hiện giống nòi, sự sinh tồn của dân tộc được treo giữa
nhà, có con chim đại bàng lớn được khắc vạch các hoa văn đỏ, trắng trên nền
đen. Gu dẹt hay la vang treo ở cửa trước tum. Trên la vang là cả một bức tranh
liên hoàn, trong đó có vẽ các hình ảnh, hoa lá, sinh hoạt rất đặc thù. Người
Kor giỏi đan lát, trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và hái lượm, những sản phẩm đồ
đan của người Kor thật sự là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, đẹp mắt. Những
kinh nghiệm về trồng, chế biến, khai thác quế, kinh nghiệm chữa bệnh…. cũng là
những tri thức dân gian quý báu. Về di sản văn hóa Việt ở Trà Bồng thì có thể
kể đến những bài ca dao, các điệu hát dân ca còn lưu truyền tới ngày nay. Giữa
người Kor và người Việt ở Trà Bồng cũng có sự giao thoa văn hóa với nhau khá
đậm nét đó là người Kor cũng có bộ lễ phục áo dài vốn là sản phẩm của miền
xuôi, ở Điện Trường Bà người Kinh, người Kor đều tới cúng lễ, tưởng niệm bà
Thánh Mẫu Thiên Y A Na, biểu tượng cho tinh thần đại đoàn kết các dân tộc ở Trà
Bồng. Lăng thờ Bạch Hổ ở Thị trấn Trà Xuân cũng là biểu tượng của giao lưu văn
hóa Việt – Kor.
Quảng Trường 28-8
Quảng Trường 28-8
Các
hoạt động Văn hóa, Thể thao từng bước được đầu tư và phát triển, các thiết chế
văn hóa được đầu tư xây dựng từ huyện đến cơ sở, các công trình tiêu biểu:
Quảng Trường 28/8, Trung tâm Văn hóa – Thể thao. Sắp đến đầu tư Sân vận động,
Khu bảo tồn Văn hóa các dân tộc huyện Trà Bồng, Cung Văn hóa thiếu nhi, Công
viên 28/8.
Hoạt
động Du lịch được hình thành và từng bước phát triển, góp phần phục vụ nhu cầu
tham quan của nhân dân và du khách trong và ngoài tỉnh như. Huyện ủy ban hành
Nghị quyết chuyên đề, Hội đồng nhân dân phê duyệt Đề án phát triển Du lịch Trà
Bồng giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020.
Hoạt
động Y tế, giáo dục được quan tâm đặc biệt, từng bước phát triển


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét